Tiêu chuẩn chẩn đoán viêm khớp dạng thấp

Tiêu chuẩn chẩn đoán viêm khớp dạng thấp là cơ sở giúp bác sĩ phát hiện bệnh tốt hơn. Bài viết hôm nay, bác sĩ Hồng Yến chuyên gia của INDembassy sẽ giải đáp chi tiết về vấn đề này nhé.

Tiêu chuẩn chẩn đoán viêm khớp dạng thấp

Để xác định xem người bệnh liệu có mắc chứng viêm khớp dạng thấp hay không, các bác sĩ sẽ tiến hành thăm khám và làm một số xét nghiệm cần thiết đối với người bệnh. Thông qua việc so sánh kết quả xét nghiệm với các chỉ số trong tiêu chuẩn chẩn đoán, các bác sĩ có thể khẳng định được liệu người bệnh có mắc chứng viêm khớp dạng thấp hay không. Đồng thời, mức độ nghiêm trọng của bệnh lý ra sao cũng được làm sáng tỏ.

Hiện nay, Việt Nam và các nước trên thế giới thường sử dụng 2 hệ tiêu chuẩn để chẩn đoán căn bệnh này. Một là tiêu chuẩn của Hội Thấp khớp học Hoa Kỳ (viết tắt là ACR 1987). Hai là tiêu chuẩn của Hội thấp khớp học Hoa Kỳ và Liên đoàn chống Thấp khớp châu Âu 2010 (ACR/EULAR 2010).

Tiêu chuẩn chẩn đoán viêm khớp dạng thấp

Tiêu chuẩn chẩn đoán của Hội Thấp khớp học Hoa Kỳ (ACR 1987)

Không chỉ được sử dụng phổ biến ở Việt Nam, tiêu chuẩn chẩn đoán viêm khớp dạng thấp ACR 1987 còn được ứng dụng khá nhiều ở nhiều nước trên khắp thế giới. Đây được coi là phương pháp chẩn đoán mang lại độ nhạy và độ chính xác cao ở những bệnh nhân viêm đa khớp, hoặc trong trường hợp bệnh đã ở trong giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, với những ca bệnh mới khởi phát, các tiêu chuẩn này dường như không đem lại hiệu quả cao trong chẩn đoán và thường rất khó để nhận biết bệnh.

Trong tiêu chuẩn ACR 1987, phương pháp chẩn đoán viêm khớp dạng thấp phần lớn đều có thể thực hiện bằng cách quan sát trực tiếp hoặc chụp X-quang mà không cần sử dụng đến các xét nghiệm hóa sinh. Theo đó, bệnh nhân được coi là đã mắc viêm khớp dạng thấp khi xuất hiện từ 4 trong 7 biểu hiện dưới đây:

  • Thường xuyên xuất hiện các cơn cứng khớp vào buổi sáng. Khoảng thời gian khớp bị cứng kéo dài ít nhất 1 giờ
  • Tình trạng viêm xảy ra ít nhất trong 6 tuần ở 3 trên 14 vị trí khớp sau: khớp ngón tay, bàn tay, cổ tay, khuỷu tay, khớp gối, cổ chân, bàn chân hoặc các khớp ngón chân ở 2 bên.
  • Có ít nhất một vị trí viêm xảy ra ở các khớp tay (vị trí khớp ngón, bàn tay, cổ tay)
  • Vị trí viêm đối xứng hai bên
  • Dưới da xuất hiện các hạt
  • Phân tích huyết thanh và xét nghiệm RF cho kết quả dương tính
  • Khi chụp X-quang các ổ khớp có xuất hiện các tổn thương như bào mòn, khe khớp bị hẹp, đầu xương hình khuyết, chất khoáng ở đầu xương mất dần,….
Tiêu chuẩn chẩn đoán của Hội Thấp khớp học Hoa Kỳ (ACR 1987)

Tiêu chuẩn chẩn đoán viêm khớp dạng thấp ACR/EULAR 2010

Khác với ACR 1987, tiêu chuẩn chẩn đoán viêm khớp dạng thấp ACR/EULAR 2010 được coi là bước tiến mới giúp chẩn đoán bệnh thấp khớp ngay từ lúc bệnh mới bắt đầu (thời điểm dưới 6 tuần). Theo đó, tiêu chuẩn này sẽ sử dụng cả 4 tiêu chí về mức độ tổn thương khớp, kết quả xét nghiệm miễn dịch, phản ứng viêm cấp tính và thời gian bị bệnh để đưa ra kết luận. Chính vì thế, độ chính xác của phương pháp này thường cao hơn và có thể sử dụng để chẩn đoán cho cả những trường hợp mới khởi phát bệnh và chưa có những triệu chứng rõ rệt.

Cụ thể, với mỗi tiêu chí trong tiêu chuẩn ACR/EULAR 2010, mỗi mức độ biểu hiện khác nhau sẽ được đánh giá bằng một điểm số nhất định. Sau khi cộng tất cả điểm số của cả 4 tiêu chí, ta sẽ được một số điểm nhất định trên thang điểm 10. Nếu số điểm này lớn hơn hoặc bằng 6, ta có thể kết luận bệnh nhân đã mắc chứng thấp khớp.

Tiêu chuẩn chẩn đoán viêm khớp dạng thấp ACR/EULAR 2010
Tuy nhiên, khi sử dụng phương pháp chẩn đoán viêm khớp dạng thấp này, người bệnh cần chú ý phải thường xuyên tái khám để bác sĩ tiện theo dõi và đánh giá khi các chỉ số trong xét nghiệm có sự thay đổi. Thêm vào đó, phương pháp này tuy có thể phát hiện bệnh viêm khớp dạng thấp từ sớm, song chúng cũng có thể gây nhầm lẫn với một số bệnh lý về cơ xương khớp do các triệu chứng ban đầu mờ nhạt, không rõ ràng.
Tham khảo thêm: